Ngày Ấy
30/4/75
Sáng
30/4/1975, sau khi nghe thông điệp đầu hàng của Dương Văn Minh, cả phòng giáo
sư yên lặng... cho đến khi ai đó vặn tắt chiếc radio giữa phòng...
Lúc đó tôi
là Tổng Giám Thị của trường Trung Học Tống Phước Hiệp Vĩnh Long. Sau khi họp với bà Hiệu Trưởng và ông Giám Học, tôi trở về
phòng Tổng Giám Thị, bật máy phóng thanh của trường và thông báo cho toàn thể học
sinh ra về, lúc đó đang giữa buổi học nên xe buýt học sinh không hoạt động. Tôi
đã yêu cầu tất cả học sinh, nhất là các em ở xa, phải
tìm đủ mọi phương tiện về nhà ngay...
Vẫn
còn nhớ, sáng 30/4 ấy, mọi sinh hoạt ở Vĩnh Long vẫn như mọi ngày, xe buýt học
sinh vẫn chạy, chợ búa vẫn họp. Mọi việc vẫn bình thường, hay ít ra cũng có vẻ
bình thường. Chỉ sau khi lệnh buông súng của Dương Văn Minh loan ra, sinh hoạt ở
thị xã mới có vẻ hối hả hơn một chút.
Tôi về nhà, trên đường Văn Thánh, không biết làm
gì, đầu óc hoàn toàn trống rỗng.
Xế,
ngồi uống cafe ở quán Ánh Hồng, cạnh nhà, đối diện là viên Trung Úy Đại Đội Trưởng
(?) của đồn quân cảnh bên kia đường. Cả hai cùng yên lặng hút thuốc... Tôi hỏi
anh sao không về nhà? anh bảo đã cho tất cả thuộc cấp đi rối, chỉ còn anh và một
viên sĩ quan nữa còn ở lại thôi...Cả hai lại yên lặng, mỗi người theo đuổi suy
nghĩ của mình, không biết anh nghĩ gì, riêng tôi mọi việc có vẻ như ngỡ ngàng,
dù tin tức hàng ngày cho thấy miền Nam đang trong cơn hấp hối. Vợ tôi sang nhờ tôi chở đi chợ mua thêm lương
khô để trử... anh nhờ tôi ghé sạp thuốc lá mua giùm mấy tút thuốc Ruby quân tiếp
vụ, e rằng rồi không còn thuốc này để hút...
Buổi
tối, đàn ông cả xóm ngồi đầy quán cafe bình dân của Giáo Bảo. Họ ở nhà không biết
làm gì, ra quán ngồi bàn đủ thứ chuyện, kể đủ thứ chuyện... cho đến hai giờ
sáng tôi mới về nhà, cố dỗ giấc ngủ chập chờn.
Sáng
1/5, tỉnh giấc, nghe lao xao trước cửa, bước ra... bà con xì xào:
- Giáo sư coi, việt cộng kìa…
Vài
ba anh du kích nón tai bèo, súng đủ loại với vài người bận bà ba đen, hì hục đẩy
chiếc xe jeep hết xăng, ngừng lại trước đồn quân cảnh, vào trong hỏi xin xăng.
Bên trong, trên cột cờ vẫn còn phất phới chiếc cờ vàng ba sọc đỏ. Sau khi đám
Việt Cộng đi khỏi, hai viên sĩ quan làm lễ hạ cờ. Chỉ còn hai vị sĩ quan chào
nhau...
* * *
1/5/1975
Sau khi xem hai sĩ quan Quân Cảnh hạ cờ trong
khuôn viên của đồn Quân cành tư pháp, tôi trở vào nhà không biết phải làm gì.
Tin tức gia đình ngoài Phan Thiết hoàn toàn không có, hai đứa em, một Nhảy Dù,
một Thủy Quân Lục Chiến cũng biệt vô âm tín. Lòng hoang mang vô cùng.
Nói với vợ: để anh lên trường thử xem sao,
không có gì thì anh về. Đang dắt xe ra khỏi nhà thì một chiếc xe lam, trên có
vài chú nhóc mang băng vải đỏ, thông báo qua chiếc loa pin gắn trên nóc, gọi tất cả công chức phải trình diện ngay lập tức tại nhiệm
sở... với những lời lẽ đầy hăm dọa.
Lên trường, giáo sư dần dà tập họp khá đầy đủ... họ
chờ đợi, vì không biết phải làm gì.
Học sinh vắng bóng. Lác đác trong sân trường
vài người lạ...
Chừng hơn một giờ sau, một toán người áo bà
ba đen, dép râu, nón tai bèo tiến vào, người đi đầu mang theo lá cờ MTGP. Bà
Hiệu Trưởng mời vào văn phòng: Họ đến để tiếp thu trường, người tiếp thu là một
cựu học sinh của trường, ngày trước từng học với cô hiệu trưởng, vẫn còn giữ ít
nhiều tư cách, thưa gởi đàng hoàng. Họ xin phép hiệu trưởng treo cờ lên... Một
vài đồng nghiệp rút chiếc băng đỏ đeo vào tay trước sự ngỡ ngàng của những
người còn lại. Sau đó là họp hành... là những triển khai... là những chỉ thị.
Những ngày tiếp theo, dưới sự phân công của
ban giám hiệu mới, các thày cô và các học sinh chia nhau thành nhiều toán đi
lao dộng, chủ yếu là quét chợ, quét đường. Rồi thì các buổi học tập chính trị
"Đế Quốc Mỹ xâm lược nước ta...Nhân dân ta anh hùng…Lao động là vinh
quang...", thuyết trình viên ngồi rút chân lên ghế, huyên thuyên nói, thầy
cô giáo ngồi yên, lặng thinh nghe...
Rồi danh sách các giáo sư (bây giờ được đổi là
các giáo viên) được niêm yết trên hai bản đánh máy. Nhìn vào hai danh sách
người ta có thể đoán được ít nhiều chuyện gì sẽ xảy ra cho mình. Cuối cùng, mọi
người cũng biết rõ ai là người được lưu dụng, ai phải về quê.
Khoảng tháng sau, trường sửa soạn cho năm học
mới, tất cả giáo viên lưu dụng qua Cần Thơ tập huấn chính trị và nghiệp vụ. Lần
đầu tiên thấy “cụm từ” Hai cách mô tả vĩ mô và vi mô của thuyết động học trong
chương trình Vật Lý lớp 11... Trở lại trường, tôi đươc anh em bầu làm Tổ Trưởng
Vật Lý. Sách giáo khoa do nhà xuât bản giải phóng gửi về, môn nào cũng có, trừ
môn Vật Lý. Anh em nhìn nhau hỏi : dạy cái gì?... Thì thôi đành ngồi lại với
nhau soạn bài dạy, dựa theo chương trình có trong tay… Nửa chừng sách giáo khoa
gửi về dưới dạng ronéo, lỗi đánh máy đầy dẫy trên từng chương. Thôi thì có còn
hơn không.
Rồi thì họp nhau soạn “giáo án” để “lên lớp”,
với phần mở đầu luôn luôn là “mục đích yêu cầu”. Dạy một môn khoa học như
Toán,Vật Lý, Hóa Học… mà luôn phải “nặn” cho ra một mục đích yêu cầu, nhiều khi
là ngoài khả năng của giáo viên. Một giáo viên “ngụy” bảo nhỏ: “thì cứ viết đại
dạy cho học sinh tinh thần khoa học, sáng
tạo hay một câu đại loại ca tụng
đảng và nhà nước cho xong, có ai đọc đâu mà lo”, thành ra cái gọi là mục đích
yêu cầu của bài dạy trở thành thứ để mọi người lôi cái khuôn ra dùng.
Chừng gần cuối năm học (tháng 4/1976), một
sáng, sau hai tiết đầu, trong phòng giáo viên lại có một danh sách. Ngay sau
đó, một thông cáo cho biết các giáo viên trên danh sách lập thủ tục bàn giao
cho người có trách nhiệm, chuẩn bị đi học tập cải tạo bảy ngày... Ngày tập
trung, một hàng xe GMC đậu trước cửa trường Tống Phước Hiệp. Người dân, thân
nhân, phụ huynh và học sinh chen nhau đứng bên kia đường, hoang mang nhìn đám thầy
giáo lủi thủi trèo lên mấy chiếc GMC. Một số học sinh và phụ huynh bạo gan đến
gần, chuyền đại lên xe vài gói thuốc lá, ổ bánh mì... cho bất kỳ người nào họ
với tới, bất kể lạ quen, cùng với lời dặn ráng giữ gìn sức khỏe.
Xe chuyển bánh về hướng Long Hồ.
Chuyện mở sang một trang khác.
* * *
KHÁM
LỚN TRÀ VINH
Hôm trước ngày tôi phải đi trình diện, học
sinh hết nhóm này đến nhóm khác, đến thăm. Cũng chẳng có gì để nói ngoài những
câu rất chung chung: thầy ráng giữ gìn sức khỏe…Công an khu vực tới làm việc, bảo
tôi nên tránh mặt. Đồn quân cảnh trước nhà ngày trước, bây giờ là trụ sở của Thị
Xã Ủy. Các em cứ ra vô hoài, bất tiện. Chiều
tối, hai học sinh nữa lại đến, trong đó có một em là đoàn viên, từ ngoài Bắc
vào, còn em kia là lớp phó. Thầy trò chỉ biết nhìn nhau yên lặng sau những chào
hỏi đầu tiên. Cuối cùng trước khi ra về, em đoàn viên nắm tay tôi nói: người ta
bảo thầy là tập trung bảy ngày, sẽ không phải như thế đâu, thầy nên sửa soạn
tâm lý… Sửa soạn gì? Thật sự tôi không thể nghĩ gì xa hơn việc ngày sinh đứa
con thứ hai của vợ tôi gần kề, không biết lúc nào. Dù tin lời của em học sinh,
tôi cũng chỉ biết mang theo vài bộ quần áo, chăn mùng… và một ít lương khô. Vả
lại, cũng không biết phải mang theo gì, bỏ lại gì. Còn tiền bạc, gần như tôi
dành hết số tiền lương ít ỏi còn lại của mình cho vợ tôi để chờ ngày, số tiền
tiết kiệm trước kia trong Việt Nam Thương Tín và Saigon Ngân Hàng tan theo mây
khói từ hồi nào rồi…
Đoàn GMC chở đám thầy giáo khởi hành về hướng
Trà Vinh khá muộn, chừng như muốn tránh sự tò mò của ngưới dân. Anh em không
biết sẽ đi đâu. Có người còn bàn: chắc sẽ chở xuống Ba Động, người khác bàn:
Trà Ôn, ai cũng có lý do để giải thích tại sao… Gió thốc vào xe không phủ mui
thấy lạnh, may mà xe chất đầy cứng anh em. Lúc đoàn xe ngừng lại trong ánh đèn
đường vàng vọt, trời đã tối hẳn, một tiếng nói thầm nhưng cũng đủ cho cả xe
cùng nghe: Khám lớn Trà Vinh. Cả đám lục tục xuống xe, vào trong sân, chờ lục
soát đồ dùng cá nhân mang theo, tất cả vật dụng bén nhọn đều bị tịch thu, ai
mang tiền bạc nhiều phải gửi lại cho ban quản lý trại giam. Xong thủ tục khám
xét, tất cả bị lùa vào sân trong, sau cánh cửa song sắt có khóa. Bao quanh sân
là các dãy phòng nhốt tù nhân. Những người bị giam ở trần trùng trục trong
phòng, đu bám đầy ở cửa, tò mò nhìn tốp mới vào. Một tiếng kêu lên từ một phòng
giam: Thầy giáo tụi mày ơi! Tao thấy thầy H., ơ thầy Q. nữa kìa. Thầy giáo làm
gì mà bị bắt vào đây? – Không có câu trả lời.
Mấy ngày trong khám lớn Trà Vinh chưa thấy gì
khổ cực, chỉ có chật chội thôi, thêm nỗi lo cho vợ gần ngày sinh nở. Tôi ở phòng
giam ngang bốn mét, dài khoảng hơn mười lăm mét nhốt tám chục người, cuối phòng
là một cầu tiêu chồm hổm, hầu hết là anh em giáo giên của thị xã Vĩnh Long. Mỗi
người chỉ đủ chỗ cho một chiếc chiếu nhỏ phủ lên nhau, làm chỗ ngã lưng vào ban
đêm, người này sát người kia, kín hết phòng; còn ban ngày, thu dọn chỗ ngủ,
ngồi quanh phòng hay ra sân bắt chước bạn tù ở từ trước mài sừng trâu làm kẹp
hay trâm cài tóc. Cả ngày quanh quẩn trong sân, nhìn bông cây sao bên ngoài
rụng, xoay xoay trong gió…Phòng giam nền xi măng tróc lỗ chỗ vài nơi, vách
tường, mái tôn. Ngày nóng, cổi trần trùng trục mà vẫn nóng, đêm chen chúc nhau
như cá mòi trong hộp, ai cũng nhơ nhớp mồ hôi… cũng phải chịu đựng thôi, đâu
phải ở nhà của mình, đây là khám lớn Trà Vinh mà!…
Rồi lệnh phải viết lý lịch, kê khai từ ông
cố, ông nội…kê khai cả lý lịch bên vợ… viết đi viết lại, đến nỗi thuộc lòng
những gì đã viết… rồi đến những bài học chính trị cũ mèm: từ bài đầu đế quốc Mỹ
xâm lược nước ta… đến bài cuối lao động là vinh quang, nội dung không khác với
những bài đã học khi tập huấn chính trị và nghiệp vụ hồi đầu niên khóa… Ngày
học tập, triển khai ở hội trường, tối hội thảo ngay tại phòng ngủ. Lương thực
ngày hai bữa cơm nhão lưng bát và một ít đồ ăn tanh tưởi nuốt không trôi (về
sau mới thấy vẫn còn khá hơn so với anh em sĩ quan thuần túy bị giam ngoài
Trung, ngoài Bắc).
Một anh thiếu úy của Địa Phương Quân, quê Trà
Ôn đang mạnh khỏe, bỗng sau một đêm sáng ra cứng ngắt, chết từ hồi nào, anh nằm
cách một bác sĩ quân y một chiếc chiếu… chờ ba ngày không thấy thân nhân xuống,
lệnh đem chôn: sáu người với hai cái vá (xẻng làm ruộng của nông dân) khiêng
anh lên một ngôi chùa Miên gần đó, trong một đêm mưa rả rích… Mấy ngày sau, vợ
anh, con gái và cha anh xuống xin nhận xác đem về. Phải làm đủ mọi giấy tờ cam
kết về quê là chôn ngay, không được làm đám tang, không được khóc lóc… Sáu anh bạn
tù khiêng chôn hôm trước, được gọi ra lên chùa bốc mộ nạn nhân cũng trong một
đêm tối trời mưa lâm râm. Gia đình kiếm được một cỗ áo quan khá tốt thay cho
chiếc quan tài gỗ tạp của trại giam cung cấp. Đào lỗ, chôn xuống thì dễ, móc
lên khó trần thân vì mưa mấy ngày, đất pha cát hút chặt quan tài, lại không dám
xeo đào mạnh tay, sợ bể bung. Ông già thắp nhang khấn thầm, vợ lẩm bẩm trong
nước mắt: “anh về với vợ con, không lẽ anh muốn nằm đây một mình sao anh”, mấy
anh bạn đào mộ cũng bùi ngùi. Đã hơn bảy ngày, tử thi đã bốc mùi… Đem được xác
lên, thay vội áo quan, gia đình đi ngay trog dêm tối mịt mù.
Một tù nhân khác, được vợ lên thăm, mang theo
hai đứa con còn nhỏ, khoảng năm bảy tuổi. Chị vợ hỏi xin ban quản trại cho gởi
hai đứa nhỏ, chạy ra chợ mua ổ bánh mì cho chồng… rồi đi luôn, báo hại hai đứa
nhỏ tự nhiên phải ở tù với ba nó hết mấy ngày, chờ ông bà nội xuống mang về.
Nhìn chung, lúc đó chỉ mới hơn một năm sau
ngày “giải phóng”, chế độ còn do ban quân quản, chưa giao về cho công an, nên
chưa có vẻ khắc nghiệt lắm.
Tôi vẫn không có tin tức gì từ gia đình, nhẩm
tính ra có lẽ vợ tôi đã sinh rồi, lành dữ ra sao mà không thấy tin. Tôi cũng
không biết phải gì hơn là cắn răng chịu đựng mà lòng cứ bồn chồn. Lúc này trong
anh em có tin đồn lạc quan học xong bài cuối thì về, thầy giáo biệt phái mà, có
tội gì nặng với nhà nước cách mạng đâu mà phải học tập lâu. Thế rồi, đang học
nửa chừng, bỗng nhiên có lệnh sửa soạn đi lao động. Mấy anh em tù ở từ trước đến
chúc mừng: đi lao động là sắp được về. Lại dấy lên lòng lạc quan ngây thơ ở anh
em: mình sắp được về. Sáng hôm sau, lại
chất nhau lên GMC, có người lại tin chắc họ sẽ đưa đi Bến Giá hay Ba Động để
cùng lao động với học sinh… rồi về. Nhưng không phải, cả đoàn khoảng một trăm
năm mươi thầy giáo sĩ quan biệt phái, cấp bậc cao nhất là thiếu tá, thấp nhất
là chuẩn úy bị nêm chặt xuống hai ghe chài, không ai được lên trên, ghe chạy
hơn một buổi, ngừng lại. Tất cả đều ngỡ ngàng khi bị lùa vào trong một vòng kẽm
gai khá dày, với vài dãy nhà tôn… mãi sau mới biết nơi đó trước là căn cứ khẩu
đội pháo binh 105 ly của chi khu Long Khánh, thuộc huyện Duyên Hải của Trà
Vinh. Chi khu này cùng với đặc khu Long Toàn, Cồn Cù và Trường Long Hòa hợp
thành một vành đai an toàn cho huyện Duyên Hải trước kia, đối diện với vùng
oanh lích tự do, cũng là vùng kiểm soát của Việt cộng, ngay tại cửa của một
nhánh sông Hậu đổ ra biển Đông ở Láng Cháo. Vẫn có tin đồn, từ thân nhân theo
“cách mạng” của anh em ở Vĩnh Long cho biết, sắp được về. Cái thứ tin đồn chết
tiệt nuôi dưỡng lòng hy vọng trong anh em. Ai cũng vịn vào đó để sống qua ngày…
Chạng vạng, muỗi bay như vãi trấu, quơ đại một cái, thế nào cũng nắm được vài
con. Anh em được chia thành mấy đội, đội của tôi gồm mấy anh em chuẩn úy, thiếu
úy và vài trung úy, có vẻ như nhẹ “ký” nhất so với mấy đội kia. Mỗi đội bầu ra
một đội trưởng, và cả trại bầu một đại diện chánh và hai phó để nhận chỉ thị từ
ban trại.
***
HỒNG
KỂ CHUYỆN
Anh ấy đi rồi, tôi hoàn toàn như mất hết sức
lực. Lủi thủi dắt thằng con mới ba tuổi trở về nhà, lòng trống rỗng. Nằm vật ra
giường, nước mắt trào ra.
Buổi cơm tối, nghe con hỏi: “Ba đâu?” mà lòng
quặn đau - Con ăn cho giỏi đi, Ba đi công chuyện rồi. Tối, ôm con vào lòng lại
nghe con hỏi: tối rồi sao Ba chưa về hả Mẹ - Con ngủ cho giỏi đi, Ba thương…
Rồi cũng phải cho nó biết sự thật thôi: Ba
con phải đi học tập - Chừng nào Ba về - Ba học tập tốt rồi về. Tôi không biết
trong trí trẻ thơ ba tuổi hiểu thế nào là học tập, thế nào là học tập tốt,
nhưng đó là tất cả những gì tôi có thể nói với con. Lúc đó tôi mới hai mươi
bảy, từ ngày có đứa con đầu tôi xin thôi làm cán sự xã hội ở Ty Xã Hội Vĩnh
Long, tiền lương giáo sư của chồng tuy chưa dư giả nhưng không thiếu. Bây giờ,
tôi phải đối mặt với vấn đề mưu sinh, mà trước mắt là việc sinh nở gần kề.
Năm ngày sau khi anh đi, tôi chuyển bụng. Đem
vội thằng bé xuống gửi thiếm Ba gần nhà, bà hối đi nhà thương, còn gọi giùm cho
chiếc xe lôi đạp. Cũng may tôi đoán là gần ngày sinh nên đã chuẩn bị mọi thứ
cần thiết, bỏ hết vào trong một túi đệm, để sẵn ở đầu giường, cần là xách đi
ngay. Ra đến bệnh viện, bụng đau trì, đi không nổi, ghi tên xin khám. Trên
phiếu xin khám, tôi đã mắc phải một lỗi lầm tai hại: trong mục nghề nghiệp của
chồng, tôi ghi giáo viên, học tập cải tạo. Cô y tá với hai bím tóc, đọc xong
phiếu, xếp để đó, mặt lạnh lùng, giọng sắc lẽm gọi tên từng bệnh nhân vào khám,
còn tôi cứ chờ, chờ… và chờ. Cơn đau cứ kéo tới… tôi lần mò đến hỏi y tá, xin
vào khám vì đau bụng quá, cô chỉ lạnh lùng buông thỏng: cứ đợi đó…
Nhân một lúc cô y tá trực không có mặt, một y
tá khác đi ngang, ngầm ra dấu chỉ ra phía trước, tôi gượng bước theo. Cô nói
nhanh: “em là học trò cũ của Thầy, sao cô khai thầy đi học tập làm gì vậy, con
mẻ không cho cô vào đâu, em đã nói với cô mụ Bảy rồi, cổ nói cô mau lên nhà của
cổ liền đi, cổ theo về liền bây giờ”. Tôi thật không tin vào tai mình, con
người có thể đối xử vô nhân đạo tới ngần ấy sao. Ráng nhịn đau, tôi lê dần ra
cổng, đón xe lôi lên nhà cô mụ Bảy, ngày xưa đã từng là bảo sanh viện tư của
cô, và tôi đã sinh cháu lớn ở đó ba năm trước. Cô Bảy về kịp lúc, khám cho tôi
xong, cô nói, bà giáo sư sinh bây giờ, cô sao thiệt thà quá, ở phường biết ông
giáo sư đi học tập chớ ở nhà thương làm sao họ biết? – Tôi không còn đủ sức để
trả lời… Chỉ một lúc sau, tiếng khóc chào đời của đứa bé mới làm tôi lấy lại
chút tỉnh táo, tiếng cô mụ, một thằng con trai nữa bà giáo sư ơi…
Nhưng rồi tiếng cô mụ mơ hồ bên tai: tôi nói
với bệnh viện về ăn cơm, không thể ở đây quá lâu, mà cô giáo cũng phải về thôi,
phòng bào sanh của tôi đóng cửa lâu rồi, phường biết tôi còn hoạt động sẽ kẹt
lớn cho tôi, tôi đã gọi sẵn xe lôi, tôi sẽ chạy theo cô.
Thế đó, tôi sinh thằng con thứ hai một cách
lén lút như vậy, giống như thể mình đi buôn lậu không bằng. Bây giờ một thân
nuôi hai thằng con, tiền bạc chồng để lại không còn, tôi phải làm cái gì đó
thôi…Phường phát động xí nghiệp mây tre lá xuất khẩu, ai cũng phải lao động để
giữ hộ khẩu. Mỗi ngày tôi mang hai đứa nhỏ ra xí nghiệp, vừa làm vừa trông
chừng con. May mà nhân viên ở đó hầu hết là dân trong phường, ai cũng biết rõ
hoàn cảnh mẹ con tôi.
Một lần, tôi bị tiêu chảy, ói mửa xỉu ngay
tại xí nghiệp, người cùng làm ở đó hô nhau chở đi nhà thương, hai đứa con được
hai chị em Bích và Vân cùng làm ở xí nghiệp, học trò cũ của chồng tôi, liều
mạng bồng về nhà, trình bày với gia đình. Cha mẹ hai cô cũng là “ngụy quyền”,
mở tay đón nhận… Hai ngày sau, tôi gượng dậy, theo Bích về nhà, nhận lại con. Em tôi từ Saigon xuống đở đần tôi một khoảng
thời gian. Thiếm Sáu, Má của Bích, Vân nấu rượu, bà bảo tôi theo Bích bỏ mối
kiếm sống. Những lần đi như vậy tôi gửi con ở nhà Bích, Vân. Một em học sinh
khác ở gần đó, cũng vừa sinh con, cho thằng con sau của tôi bú thép; một vú
nuôi con mình, một vú nuôi con thầy. Từ
đó, nghề dạy nghề, tôi làm mọi thứ để có tiền nuôi con, khi thì mua hàng quốc
doanh bán lại, khi thì quần áo cũ, khi thì đi lậu rượu, thịt lên Saigon, thoát
được thì lời nhiều, bị bắt thì cụt vốn, lại gầy keo khác.
Hoàn cảnh một thân một mình của tôi đánh động
tấm lòng của người dân quanh vùng, nhất là chị em có chồng là giáo viên đi học
tập. Họ đến để an ủi, sẵn lòng giúp nếu cần. Mỗi lần đi thăm nuôi họ đều ghé
nhà hỏi tôi muốn gửi gì cho chồng, họ mang đi. Quà thăm nuôi của tôi thường chỉ
là bức thư ngắn, với những tin gia đình ngắn gọn và những lời động viên đúng
sách vở, kèm theo vài viên thuốc cảm, vài con cá khô, bánh thuốc rê… một phần
tôi không có tiền, phần khác cũng phải hạn chế vì họ còn phải mang quà cho
chồng của họ nữa. Thỉnh thoảng tôi cũng nhận được những giúp đở không biết từ
ai. Có lần tôi đi buôn về, vào nhà thấy
có năm ba đồng, có khi đến hai chục nhét qua ngạch cửa, chỉ có tiền, không có
lời nhắn gì hết, tôi chỉ biết thầm cám ơn và cầu nguyện bình an cho những ân
nhân ẩn danh đó.
Tôi cứ sống vô định như vậy, ngày này qua
ngày khác. Không vốn, không người thân, mà không thể bỏ về Saigon với gia đình,
Vả lại, ở Saigon cũng chỉ còn mấy đứa em, sống đấp đổi qua ngày, với lại về
trên ấy thì làm sao biết tin chồng. Sống bấp bênh như bèo giạt như thế mà chờ
đợi, mà ngóng tin, mà hy vọng…Thằng con
lớn hình như cũng lờ mờ hiểu chuyện gì đang xảy ra, nên rất ngoan, mới hơn ba
tuổi mà đã phải trông em giúp mẹ. Tôi ngày càng mỏi mệt, nhưng vẫn phải cắn
răng mà sống.
* * *
VINH
QUANG
Mỗi sáng sau khi tự nấu lấy buổi sáng và đem
theo phần ăn trưa, 6 giờ 30, kẻng tập họp, mọi người sửa soạn cho ngày lao
động. Tập họp ở sân, tùy theo ngày, có lúc phải vào rừng đốn củi, mỗi toán năm
người, với hai chiếc búa hay dao, phải mang về giao nộp cho ban đội chỉ tiêu
nửa mét củi; có lúc phát rừng, đào đất… những toán lao động được dẫn vào địa
điểm, làm xong thì về trại, thường thì vào lúc mặt trời lặn, trưa ăn phần lương
thực mang theo.
Một lần đi đốn củi, một hiểu lầm nhỏ gây nên
hậu quả trầm trọng. Một toán đốn củi, sau khi theo anh đội hướng dẫn vào rừng,
họ bắt đầu đốn cây… Sau bữa trưa, toán quyết định chặt thêm hai cây nữa, cho đủ
số trên giao; một anh nói với bạn: “bây giờ thì mình hạ thằng này, sau đó tới thằng
này. Một mình tao làm không nổi, không lẽ bốn năm thằng mình hạ không nổi nó
sao?” Nói xong anh xăm xăm xách búa tiến tới. Xui cho anh bạn cải tạo, anh đội
hướng dẫn đang ngồi trốn nắng trong bụi sát cây. Hiểu lầm câu nói của mấy người
cải tạo, anh đội nổ súng báo động. Trong
trại, bộ đội cầm súng ào ra, bắt trói năm người cải tạo đang nằm dài
không dám nhúc nhích trên đất, giải về, nhốt vào connex. Buổi lao động bị hủy
và lệnh mọi người phải về trại ngay, ở yên trong lán. Người biết chuyện thầm
thì kể lại câu chuyện, kẻ lo sợ cho số phận của mấy “tên tội phạm”… Buổi tối,
lệnh tất cả tập họp. Máy điện chạy thắp sáng hai ngọn đèn pha rọi sáng sân trại.
Mọi người yên lặng cúi đầu nghe tên trại trưởng mạt sát, hăm dọa, buộc tội… Cuối
cùng, anh đại diện trại (là một đại úy) nhỏ nhẹ trình bày lại câu chuyện, chỉ
là một sự hiểu lầm. Sau những hăm dọa cuối cùng, y ra lệnh giải tán về lán,
chừng đó người ta nghe tiếng lách cách của hai khẩu đại liên đặt trong bóng
tối, phía sau hai ngọn đèn pha. Mọi người nén tiếng thở dài… không biết chuyện
gì sẽ xảy ra nếu viên trại trưởng không kềm chế được, hay một hành động vô thức
của một trại viên nào đó, hai khẩu đại liên sẽ không để một ai sống sót…
Ngày hôm sau, năm người bị giải đi khỏi trại,
về sau mới biết họ bị đưa đi Bưng Xẩm.
Sự
vinh quang của đám thầy giáo cải tạo lên đến tột cùng khi người ta thực hiện đề
án bắt tôm (mà người địa phương gọi là tép bạc thẻ). Dựa theo kinh nghiệm của
người Khmer ở địa phương đặt “xà ngôn” dọc theo các đường nước đổ ra biển khi thủy
triều xuống, đón bắt bầy tôm theo con nước vào rừng rất giàu phiêu sinh vật là
nguồn thức ăn thiên nhiên của tôm. Với sức lao động “chùa” của đám cải tạo của
hai ba trại cải tạo quanh đó, lao động chính của công trường không thiếu. Ban
đầu là phá rừng, năm người họp thành một toán, mỗi ngày đốn và lôi cây rừng vào
trong xa, cách tim đường ít nhất hai mươi mét, mỗi ngày mỗi toán phải khai
hoang từ năm mươi đến một trăm mét vuông rừng ngập mặn, tùy cây rừng dày hay
thưa, hầu hết là cây mấm, giá hay chà là, không có giá trị kinh tế; giai đoạn
kế là đào đất đắp một con đường, mặt đường cao một mét, rộng khoảng ba mét,
chạy ngang khu rừng chặn đường đi của tôm; giai đoạn cuối là cho dựng các loại
xà ngôn để chận bắt tôm. Tất cả đều làm bằng tay với dụng cụ duy nhất là vá
(xẻng) đào đất. Cuối cùng thì công trường cũng hoàn thành với một con đường đất
dài hơn mười kilo mét với mười một xà ngôn.
Bàn tay ta làm nên tất cả
Với
sức người sỏi đá củng thành cơm
Thức
ăn dành cho lực lượng lao động là một tháng mười lon sữa bò gạo ẩm, mọt, đầy
sạn và bông cỏ. Cũng may, thức ăn có thêm nhờ
“cải thiện” (kiếm thêm thức ăn sau giờ lao động) bắt cá tôm còn sót
trong mương, vũng dọc đường từ trại ra công trường . Về sau, nghe chuyện của
những người bị giam ở các trại ngoài Trung, ngoài Bắc, mới thấy mình vẫn còn
may mắn, còn kiếm được cái để ăn.
Ngày
này qua ngày kia, lao động miệt mài, con người cũng dần hết tin vào những tin
tức “nghe” lõm được. Họ không còn tin vào gì nữa hết, đầu óc xơ cứng dần, chỉ
còn nương vào nhau mà cùng chịu đựng dù thỉnh thoảng vẫn có người nhà đi thăm
nuôi.
Cuối
cùng, giống như trong truyện “Giờ Thứ Hai Mươi Lăm” của Constant Virgil
Gheorghiu, Cái Vinh Quang của thứ lao động mà người cộng sản lớn tiếng ca ngợi
là làm Con Người “teo tóp” lại, khi vào trại, mỗi người cân nặng trung bình năm
mươi lăm đến sáu mươi lăm kí lô, sau khi rời trại, họ chỉ còn khoảng bốn mươi
lăm kí lô, “teo” mất khoảng mười đến hai mươi kí, nhân cho vài trăm ngàn lao
động, chúng ta thấy ngay cái “vinh quang” của lao động trong các trại tù cải
tạo cộng sản.
* * *
LÁNG CHÁO
Lệnh
chuyển trại. Khoảng hơn một trăm tù thày giáo có lệnh phải chuyển trại, còn lại
chỉ là số anh em bệnh và vài người trong ban đại diện của mỗi phòng. Lần này,
không di chuyển bằng xe hay bằng ghe, cứ nối đuôi nhau mà đi. Ban đầu còn đi
trên “con đê” do chính mình đắp ngang rừng, sau đó băng ngang khu rừng thấp mà
đi, quá nửa ngày ngang một xóm nhỏ: Cồn Cù…và cuối cùng ngừng lại một nơi có
tên Láng Cháo. Cám ơn bác và cách mạng, các thày giáo lần đầu biết đến những
địa danh có lẽ chỉ thấy trên những bản đồ quân sự. Vùng này là vùng oanh kích
tự do ngày trước vì là đất “riêng” của Việt cộng nằm dọc một nhánh sông Hậu,
gần cửa biển, ở đây nước mặn quanh năm, người dân sống nhờ ruộng muối, đào
giếng lấy nước ngọt làm rẩy. Ngày trước họ phải theo cách mạng vì phía quốc gia
không kiểm soát được, phần đất này coi như bỏ ngõ, quốc gia chỉ kiểm soát phần đông dân ở phía
trong.
Trại
giam là một dãy lán dựng trong một hàng rào kẽm gai, nghe kể ngày xưa lúc còn
đang chiến tranh, từng là trại giam tù binh, hai người luôn bị còng dính vào
nhau, ăn ngủ, lao động, vệ sinh, tắm rửa… lúc nào cũng có cặp. Đám thày giáo
mới tới này bổ sung cho lực lượng lao động cho một công trường ruộng muối của
trại. Cơm ăn do nhà bếp của trại lo, cơm lẫn sạn và bông cỏ, khi sống khi nhão,
thức ăn có phần dồi dào hơn hồi ở trại Long Khánh nhờ trại viên kiếm bắt tôm cá
có sẵn và rau trái do dân trồng bán lại. Kỷ luật trại có phần nới lỏng vì họ
biết chắc không một ai vượt qua được khoảng trống hoang vu mà không bị phát
giác, chỉ có buổi tối phải ở trong lán, muốn ra ngoài phải cầm theo đèn và hô
lớn “thưa anh đội, tôi đi đái (đi ỉa)”. Có một lần, một tàu vượt biên bị hỏng
máy trôi tấp vào mé biển, người trên tàu nghĩ là mình đã đi xa lắm, ít ra cũng
tới Rạch Giá, Cà Mau… lên bờ tìm đường về nhà. Họ bị phát hiện ngay khi tiếp
xúc với người địa phương và bị đưa về trại giam.
Toán
lao động mới được phân công việc ngay ngày hôm sau, chúng tôi tập làm quen với
nghề mới: làm muối. Công việc cũng khá phức tạp, nhẹ nhất là nện bờ, dùng chày
nện đều đặn vào bờ ruộng muối sao cho bờ vuông ruộng được nện kỹ, bằng phẳng và
nhất là không bị nứt làm rò rỉ nước ra vào vuông ruộng, một việc khác là tìm và
giết cá lưỡi húa (họ dùng thuốc trừ sâu nông nghiệp Basudin), hình dáng giống
cá kèo, nhưng dẹp hơn, chuyên làm hang dưới nền ruộng, làm hao nước… công việc
nặng hơn, không cần đến chuyên môn là kéo các xe hủ-lô (xe lu) đủ cỡ, nhẹ nhất
là hủ-lô một trăm ký, một người kéo trên mặt ruộng tương đối còn ướt, nặng nhất
là cỡ một tấn trên ruộng khô hơn, mục đích làm cho mặt ruộng phẳng, và phác
giác các hang cá lưỡi húa còn sót, để
sẵn sàng cho ăn nước (cho nước biển vào ruộng).
Ban đầu, trại giao bảy người kéo một hủ-lô một tấn, mới bắt đầu kéo có
hơi nặng, nhưng khi hủ-lô lăn được vài vòng, thì thấy nhẹ hơn; thành thử mọi
người làm việc vui vẻ nhờ đông (bảy người), nói chuyện tiếu lâm, “đọc” chuyện
chưởng, hay “đọc tin” BBC, VOA… tin tức chính xác và cập nhật đến đâu không
biết, nhưng cũng tạo cho anh em ít nhiều thư giãn. Ít lâu sau, công trường cho
giãm xuống còn sáu người một chiếc, anh em bàn nhau, làm gì thì làm, nhưng sẽ không
cố sức làm tốt, đề phòng sẽ có ngày số người kéo còn lại năm người. Một ruộng
muối gồm năm vuông, từ lớn đến nhỏ. Ban đầu nước biển được cho rào vuông một,
rộng nhất; sau vài nắng, nước vuông một được chuyển sang vuông hai nhờ một xe
nước nhỏ quay tay, rồi vuông ba, vuông tư. Khi nước đến vuông năm, nhỏ nhất,
thì nồng độ muối đã lên rất cao (do nước bốc hơi từ mấy vuông trước). Cuối cùng
cho rớt muối sau khi thử nồng độ bằng cách bỏ vài hột gạo lên vuông, gạo không
chìm. Người ta cho rải một ít muối có sẵn để kích thích sự kết tinh vào ngày
hôm trước, hôm sau muối rớt hột, vài ngày sau, họ cào đống lấy muối… công việc
làm hết sức thô sơ và dựa vào kinh nghiệm từ trước. Thu hoạch hoàn toàn dựa vào
thời tiết, nắng nóng nhiều cho sản lượng cao, mưa bất chợt một trận, công sức
đổ hết xuống biển…Muối vùng này không trắng như muối Cà Ná hay Phan Thiết, vì ở
đây gần cửa sông, phù sa làm nước biển không trong.
Ở
vùng này có một đặc sản là nước mắm rươi. Vào mùng một và mười lăm hàng tháng
(âm lịch) rươi nổi lên và tấp vào bờ từng giề (về), dân địa phương vớt rươi về
ướp muối làm nước mắm. Nước nắm rươi rất ngon, có lẽ còn ngon hơn nước mắm nhỉ
Phan Thiết hay Phú Quốc. Ngày xưa nước mắm này làm ra phải tiến kinh, vua mới
được ăn, dân thường không ăn được, có chăng là dân địa phương làm ra, chừa lại
chút đỉnh…
Tôi
cũng không nhớ mình ở đó bao lâu, ngày ngày đi lao động ngoài công trường muối,
tối về nằm đập muỗi trong mùng. Thỉnh thoảng nghỉ một ngày ra ngoài mua thêm
lương thực, thường là bầu, bí, mướp, đậu… về nấu canh hay luộc lên ăn độn.
Người địa phương, dù sống trong vùng giải phóng từ lâu, lại rất phóng khoáng
với đám tù nhân, họ bán một nửa, cho một nửa. Có lẽ do lòng hiền lành trắc ẩn
đối với kẻ lỡ vận của người bình dân ít học.
Trong
số những người làm ở nhà bếp, tình cờ tôi có gặp một người gốc ở Phan Thiết, là
bạn cùng lớp với em tôi, Tính. Gặp tôi, anh ta nhận ra ngay, còn nhớ đúng tên
tôi nữa. Hỏi ra, ngày xưa Tính ở gần nhà vẫn thường đi chơi với em tôi. Nhờ đó
thỉnh thoảng tôi lại được Tính mang cho một miếng cơm cháy. Phần cơm cháy này
thường dành cho “tù trưởng” (đại diện chính) của trại tù, có nhiều hơn thì chia
cho anh em trong nhà bếp, nhờ vậy mà lâu lâu tôi cũng có một miếng. Tất nhiên
cơm cháy thì ít bông cỏ, nhưng sạn thì dày đặc. Tuy vậy so với cơm nhão chế độ
hàng ngày thì cơm cháy quả là món ăn cao cấp, chan nước mắm ăn thiệt cũng ngon,
mà ăn chơi với đường chảy, nước trà thì quả là quá phong lưu. Những lúc có
miếng cơm cháy, cả nhóm lao động chung như được ăn yến, ai có gì ngon cũng hùn
vô, nên có khi mỗi người chỉ một miếng mà thấy lòng hả dạ, hạnh phúc. Hạnh phúc
vì tình bạn tù, cùng hoàn cảnh, cùng cực khổ lao động, cùng chia nhau “miếng
ngon” hú họa có được. Tất nhiên cũng có người gia đình tương đối khá giả, thăm
nuôi đầy đủ, tiền bạc tương đối khá, bỏ ra ăn chung thấy tiếc nên thường sống
một mình, hưởng thụ một mình, ít khi mời ai. Nhóm tụi tôi có năm người, mà con
bà phước hết ba, tự mình cải thiện góp thêm thức ăn với nhóm, vậy mà vui, thấy
an ủi phần nào cho số phận, hoàn cảnh mình.
Ngày
lại ngày qua, thấm thoát xa vợ con hơn tám tháng. Ngày về, xa lắc xa lơ không
thấy bóng tăm. Xong một ngày hay một ngày, một tuần hay một tuần… Tính từ ngày
chia tay với vợ con đi học tập, chỉ có một lần hồi còn ở trại Long Khánh, nhân
Má tôi lặn lội từ Phan Thiết xuống Vĩnh Long thăm cháu, vợ tôi xin phép phường
thăm nuôi. Lếch thếch, bồng trống nhau hết hai ngày đường mới xuống tới trại,
nhằm lúc tôi còn đang đào đất đắp đường, phải chờ. Tới xế chiều mới gặp gia
đình. Má nhìn ứa nước mắt, vợ nghẹn ngào trả lời tiếng được tiếng mất, tôi như
kẻ mất hồn, nhìn trân trân Má lắp bắp hỏi thăm Ba và em gái, quay sang nhìn vợ và hai thằng con trai.
Thằng con lớn cứ nép vào mẹ mà nhìn chằm chằm ba nó… Chừng ba mươi phút thăm
nuôi, cũng chưa nói với nhau bao câu thì trời vừa tối, gia đình phải ra ngoài,
tìm nhà dân ở trọ. Ngày hôm sau, trước khi về, mua thêm một ít thực phẩm gởi
nhờ trại trao lại… Bây giờ, ở tận Láng Cháo, tôi cũng giống con bà phước, biết
rằng gia đình khó lòng xuống tận đây thăm nuôi. Họa hoằn lắm, tôi nhận được ít
quà của vợ con gửi nhờ bạn đồng cảnh ngộ… thường là bánh thuốc rê, gói thuốc
lào, lon cá khô, một ít tiền và bức thư không ra ngoài khuôn khổ, đọc đi dọc
lại, mong tìm được chút ẩn ý gì. Thương
nhớ vợ con đứt ruột mà đành chịu. Thôi thì ai cũng lâm vào hoàn cảnh gà trống
nhốt bội, để mặc cho gà mái bươi móc kiếm ăn.
Mặt
trời vẫn mọc, vẫn lặn và bọn tù vẫn sáng ra công trường, tối rả rời về lán…
***
NGÀY VỀ
Mấy
ngày trước trời mưa, muối của công trường cũng thu hoạch trước đó ít hôm, nên
kể từ hai hôm trước thành phần lao động chính được tập họp để đào đất đắp nền
cho kho muối của công trường. Không biết kho muối mới bao lớn nhưng nền khá
rộng. Đất đào từ nơi khá xa, phải chuyền qua hơn hai mươi người. Quay trở lại
với công việc đào đất đắp nền nhà có khác với việc đắp đường hay đắp đập hồi
còn ở Long Khánh. Công việc có ít nhiều nhàn hơn vì không cần phải theo chỉ
tiêu phải có bao nhiêu mét khối đất cho mỗi người. Làm như có vẻ công trường không muốn để tù
nhân ở không vì trời mưa ruộng muối không hoạt động được. Năm dây người từ năm
hầm đất, chuyền qua tay người về đắp một nền nhà cao tám tấc rộng gần hai trăm
mét vuông. Cứ từng cục từng cục, nền nhà hình thành dần. Cho đến lúc này các
trại học tập cải tạo do bộ đội quản lý, chưa giao về cho công an, nên cũng chưa
thấy sự khe khắc, đố kỵ như về sau này nghe kể lại.
Ngày
thứ ba, đang ngồi nghỉ giải lao chờ giờ ăn trưa thì Tính, anh bạn ở Phan Thiết ở
toán nhà bếp mang cơm trưa từ trong trại ra. Lúc chia cơm, Tính bảo nhỏ :
- Anh được về rồi, có bốn thiếu úy và một chuẩn úy được
về, em nghe ban đội đọc tên anh cho đại diện viết, em tìm cách xin mang cơm ra
đây cho anh hay.
- Còn mấy người kia là ai?
- Em không nhớ, hình như có một người tên Châu. Thôi
em không nói được gì nhiều, thằng đại diện sẽ ra gọi tên mấy anh bây giờ. Anh
cứ làm bộ không biết gì hết nheng.
Tôi
như bay bổng… mà không dám nói gì với ai. Hết giờ cơm, trở lại dây người chuyền
đất. Chừng nửa giờ sau, mà tôi nghĩ dài dằng dặc, thấp thoáng đại diện trại
cùng với một bộ đội tiến dần ra. Tôi như ngừng thở vì hồi hộp, cái tin của Tính
có lẽ đang dần đến với tôi…
Từ
trại Láng Cháo, tôi và ba thiếu úy và một chuẩn úy khác được lệnh chuyển trại
vào ngày mai (họ luôn luôn bảo là chuyển trại, nhưng anh em đoán biết). Tụi tôi
là nhóm có cấp bậc nhỏ nhất trong số anh em thày giáo bị tập trung học cải tạo.
Bạn tù kín đáo mừng cho chúng tôi. Tôi tìm gặp Tính cám ơn. Tính chỉ cười hỏi
tôi có về Phan Thiết không, nếu có báo cho gia đình Tính biết vì từ ngày buông
súng Tính không có tin gia đình, dù có gửi thư về vài lần. Tôi nói để tôi viết
thư, Tính nói cũng không cần, nhà Tính nghèo, cũng khó đi từ Phan Thiết vào đây
thăm nuôi, với lại Tính không biết gia đình còn ở chỗ cũ hay không, dân Phan
Thiết nhiều người làm nghề biển, không chừng gia đình đã vượt biên rồi. Từ ngày
bị bắt, Tính làm con bà Phước, không trông chờ gì vào thăm nuôi.
Tôi
trở về lán, gói ghém đồ cá nhân, để lại tất cả những gì mình có cho bạn cùng
nhóm, mà có gì quí giá đâu, chỉ là những dụng cụ tự chế hay cũ mèm dùng để nấu
nướng thêm. Châu bị bệnh, hình như sốt
rét, người yếu như sên, chỉ mang theo mình quần áo và vài thứ lặt vặt, gói gọn
trong một túi nhỏ. Trí Đức, người cùng về, bàn với tôi: Ngày mai tôi gánh đồ,
luôn cả hành lý của Châu cứ mau chân đi trước với cán bộ dẫn đường, Đức sẽ dìu
Châu chầm chậm đi sau, có mệt thì ngồi nghỉ đợi, chắc cán bộ không nói gì đâu.
Hôm sau, chúng tôi lên đường sớm, theo đúng những gì đã tính. Nhờ vậy đoàn
chúng tôi năm người, chia làm hai tốp, dìu lần Châu vượt đoạn đường gần hai
mươi cây số. Chúng tôi đoán không sai, chúng tôi trở về trại Long Khánh lúc mặt
trời sắp lặn, sau khi ghé nghỉ chân (?) ở trại Bến Giá khoảng hai tiếng đồng hồ.
Gặp
nhau lại, anh em mừng quá. Ở Long Khánh, mấy người biết tụi tôi gồm sáu thiếu
úy và hai chuẩn úy được về kỳ này, năm người tụi tôi từ Láng Cháo, ba người
khác từ Cồn Cù, tất cả đều là thày giáo biệt phái. Đã có lúc, họ coi chúng tôi mang
tội rất lớn, trong đó có tội là nhân viên CIA được quân đội “biệt phái” sang
ngành giáo dục… nghe đâu có người biết chuyện thanh minh, nhưng nói là một
chuyện, còn nghe hay không là chuyện khác.
Mấy ông trung úy và đại úy còn ở trại cũng mừng cho chúng tôi, còn cười
nói đùa:
- Tụi mày lon lá nhẹ hều, về trước là phải rồi, tụi
mày có về hết thì mới mong tới đám tụi tao.
Tối
hôm đó, tụi tôi được chiêu đãi một nồi chè đậu đen lỏng le, tất nhiên là nấu
chay với đường chảy. Bao lâu nay thiếu chất đường, nồi chè được vét tận tình.
Suốt đêm lòng nôn nao khó tả, nghĩ tới đoạn đường sắp tới, nếu không được đi dạy lại, lấy gì mà sống. Lại nhớ tới
vợ con, lòng như quặn thắc. Biết là họ vẫn phải tìm cách để sống, nhưng bằng
cách nào đành chịu. Bao lâu nay, hình
ảnh vợ con xếp qua một bên, sinh hoạt ở trại học tập cải tạo không để thì giờ
cho tù nhân được có những tình cảm linh tinh, có chăng chỉ thoáng qua trong
chốc lát. Vợ tôi ngày xưa là cán sự xã hội, cũng là một trưởng hướng đạo. Về
sống với tôi, nàng xin thôi việc ở Ty Xã Hội Vĩnh Long khi mang thai đứa con
đầu được sáu tháng. Tôi biết khả năng thích ứng và chịu đựng của hướng đạo
sinh, nhưng với hai con mọn, tiền bạc không có, không biết nàng xoay sở làm sao
trong cuộc đổi đời này. Rồi lại lan man nhớ tới Ba Má và em gái ngoài Phan
Thiết, chiếc xe khách của gia đình đã bị sung vào quốc doanh từ năm ngoái. Lần
cuối về thăm sau ba mươi tháng tư, Hiền, đứa em gái duy nhất của gia đình đang
học lớp mười hai. Lần Má và Hồng thăm nuôi ở trại Long Khánh, tôi hỏi thăm, Má
nói nó tốt nghiệp trung học rồi, nhưng thi không đậu được vào trường cao đẳng
hay đại học nào vì lý lịch; ngay việc xin đi làm, kể cả xin vào làm ở phòng vé
bến xe, nơi mà Ba tôi đã bao năm dày công gầy dựng nghiệp đoàn xe khách, cũng
không xong! Lý lịch gia đình đã đặt nó sống bên lề xã hội, nấu chè, nấu khoai
bán chui, bán nhủi… theo người lớn đi lậu cá hấp vào Saigon bán kiếm chút tiền
sống qua ngày… Tôi trăn trở hoài trên miếng tôn đập thẳng thay cho vạt giường
trong trại, mỗi lần trở mình, miếng tôn lại kêu rột rột. Đầu phòng, nơi chỗ ngủ
của Trí Đức cũng những trăn trở, rục rịch… Ai cũng có những xao động riêng tư.
Hai
ngày sau, khi chúng tôi đã về đủ, một anh bộ đội đưa chúng tôi qua Long Toàn,
đón xe về Trà Vinh. Chiếc xe cà tàng mỗi ngày một chuyến, cứ thụt ra thụt vào ở
chỗ đậu, thình thoảng nhấn kèn tin… tin, chú lơ con chạy tới chạy lui, đập vào
thùng xe thình thình hô lớn : “ xe chạy nghe bà con, xe chạy nghe bà con…” Nói
vậy chớ xe cứ nằm tại chỗ, thỉnh thoảng lại nhấn kèn… Hành khách co ro trong
tiết trời lành lạnh của cuối năm âm lịch, với hai ba lớp áo. Mọi người đang bận
rộn cho những ngày tháng cuối cùngcủa năm, Tết sắp tới nơi rồi .
Rồi
thì xe cũng chuyển bánh sau khi chất hơn năm mươi người, xếp chật cứng trong,
ngoài xe. Trên mui đầy cần xé hàng hóa. Thời buổi khó khăn, có được phương tiện
di chuyển là mừng rồi, ai cũng thông cảm không kêu ca. Mấy anh em được về chia
nhau các hàng ghế cuối. Xe lắc lư, hì hục tiến tới, quanh co trên đường tránh
những ổ gà, có đoạn xe bò còn chậm hơn người đi bộ, thỉnh thoảng còn ngừng lại
đón thêm khách, thêm hàng… có lúc xe ngả nghiêng, tròng trành như ghe đi trên
biển. Tuy vậy khách vẫn râm ran trò chuyện, có lẽ đã quá quen thuộc với tình
trạng này. Hàng ghế ngay trước tôi và Phùng Ba ngồi là một đôi nam nữ, có lẽ là
đôi tình nhân, hồn nhiên choàng tay qua vai nhau thủ thỉ chuyện trò, không cần
biết đến chung quanh… Rồi thì cũng qua hết đoạn đường gồ ghề, lồi lõm, bị tàn
phá nặng nề một phần vì bom đạn thời chiến tranh, phần khác do sự sử dụng mà
thiếu sự bảo quản, xe cũng lên được phần đường tráng nhựa khá êm ái, tăng dần
tốc độ, tôi chợp mắt trong mệt mỏi vì gần như trằn trọc suốt đêm từ mấy hôm
trước…
Bỗng
tiếng kêu rú của hành khách làm tôi choàng tỉnh, chiếc xe xàng qua bên phải,
rồi bên trái, lại nghiêng qua bên phải, cuối cùng lật ngang, hai phần ba thân
xe ngã ùm xuống một mương cạn cạnh đường. Mọi người nháo nhào tìm ngã thoát
thân qua các cửa sổ, tiếng kêu than, tiếng rên rỉ, gọi nhau ơi ới… anh chàng ở
băng ghế trước đang tìm cách đạp nhầu lên vai cô bạn gái, nhoài mình ra cửa sổ,
bỏ mặc cô ta đang lúng túng với gói đồ trong tay… có tiếng của Cường từ bên
ngoài: “Trời ơi, thằng Thạnh và thằng Đức còn kẹt trong xe, bà con mau mau phụ
giùm một tay…” Có tiếng của Đức ngay sau lưng tôi trả lời : “tụi tao không sao,
không sao hết…” Khi biết sự nguy hiểm đã qua, hai thằng cón cố lội xuôi ngược trong
xe đang nằm một phần dưới mương nước, xem còn sót hành khách nào chưa thoát
được, may mà nước trong xe chỉ ngang đầu gối… Khi chúng tôi ra được ngoài, cảnh
tượng trước mắt vô cùng hổn độn, hành khách đi xe kẻ nằm người ngồi ôm đầu la
liệt trên bờ cỏ; Phùng Ba, Cường và vài người đàn ông khác đang lò mò vớt hành
lý từ mui xe rớt xuống mương quăng lên bờ. Tài xế ham chở, chất mấy cần xé hột
vịt cao nghệu trên mui, nên xe mất cân bằng. Xe lật, mấy cần xé hàng bị quăng
xuống mương, hột vịt bể, tròng đỏ tròng trắng lầy nhầy dưới mương nước, ngổn
ngang trên bờ. May mắn anh em tụi tôi không ai bị thương tích gì.
Trời
đã cuối tháng Một dương lịch, gió làm tăng thêm cái lạnh vì ướt át, may mà trời
trong, cũng đã quá trưa nên cũng không thấy quá khó chịu.
Sau
khi kiểm điểm mọi việc, anh đội đón vài xe khác, gửi dần chúng tôi về Trà Vinh,
hẹn gặp nhau tại khám lớn…
Lại
khám lớn Trà Vinh.
***
“TÔI CŨNG CÓ THẰNG CON…”
Ngày
hôm sau, cả bọn được đưa ra chợ Trà Vinh chụp hình, loại hình gắn thẻ căn cước,
để làm giấy tờ ra trại. Mấy ngày sau đó, lên văn phòng làm giấy tờ, chỉ còn chờ
hình dán vào giấy chứng nhận. Lần này khu chúng tôi ở không thuộc phạm vi trại
giam đã ở mấy tháng trước, tuy mỗi ngày vẫn phải qua đó lãnh phần cơm.
Suốt
ngày tha thẩn quanh khu vực đã được chỉ định rồi…suy nghĩ lan man. Mà suy nghĩ
được gì? Bị tách biệt khỏi xã hội, môi trường cũ, tôi thấy mình như lạc lỏng, không
biết bây giờ xã hội sinh hoạt ra sao. Tôi cảm thấy mình vô dụng sau bao năm học
hành. Không vốn liếng, liệu mớ kiến thức của một thày giáo trung học sẽ giúp
được gì cho mình trong những ngày tháng tới.
Tôi không thấy lối đi nào trước mắt, chỉ mới hơn chín tháng trong trại
cải tạo, con người tôi đã “bị cải tạo” tới mức ấy sao? Từ một thanh niên yêu
đời, mạnh khỏe và năng động, tôi như trở thành ù lì, ít nói, và tệ nhất là nghi
ngờ cả bản năng mình. Sự thiếu dinh dưỡng cộng với lao động nặng làm tôi teo
tóp hẳn lại.
Sau
khi hoàn tất giấy tờ, chúng tôi được lệnh phải trở về nơi cư trú cũ để trình
diện và chịu sự quản chế của địa phương. Thôi thì thoát khỏi trại cải tạo, sum
họp với gia đình là niềm hạnh phúc lớn cho bọn tù cải tạo chúng tôi lúc bấy
giờ. Họ không cho chúng tôi có chọn lựa khác, dù tôi có xin về Phan Thiết với
cha mẹ tôi hay về Saigon với gia đình bên vợ!
Vĩnh Long nhiều kỷ niệm do tôi về dạy ở Trung học Tống Phước Hiệp năm
năm, dù rất yêu thị xã hiền hòa, con người hiền hòa của nơi sông sâu nước chảy
ấy, gia đình tôi không có thân nhân ở đó. Công việc và chiến tranh đã giữ chân
tôi quanh thị xã, tôi biết không nhiều về vùng quê lân cận.
Về
Vĩnh Long lúc đó có ba người: tôi, Trí Đức và Phùng Ba. Cả ba ra bến xe ngay
sau khi cầm giấy tờ trên tay. Tôi cũng không nhớ tiền đâu để mua vé xe. Có lẽ
Phùng Ba hay Trí Đức có tiền do gia đình thăm nuôi đều đặn. Nhưng ở bến xe, nhìn bộ dạng lớ ngớ của mấy
tên tù cải tạo vừa được thả, người ta chỉ lấy nửa tiền vé, chắc là thông cảm
cho đám tù cải tạo, dù không ai hỏi xác nhận, qua đó thấy người ngợm chúng tôi
trông không giống ai.
Cảnh
ở bến xe cũng vậy, xe nổ máy, thụt ra, thụt vào, thỉnh thoảng nhấn kèn, rồi lại
tắt máy… Cuối cùng, hơn mười một giờ, xe cũng rời bến. Nảy giờ cả ba thằng
chúng tôi yên lặng, theo đuổi những suy nghĩ trong đầu, không ai nói với ai câu
gì. Buổi sáng trời trong và vẫn còn mát lạnh, gió lùa vào cửa sổ khá mạnh, ba
đứa chiếm nguyên trọn hàng ghế của chiếc xe đò năm mươi chỗ gần cuối xe, bấy
giờ mới rù rì trò chuyện, mà chẳng chuyện gì ra chuyện gì, có lẽ chỉ là muốn
xóa đi phần nào cái nôn nao sắp được về với gia đình. Tỉnh lộ Trà Vinh – Vĩnh
Long tương đối còn tốt nên xe chạy cũng khá nhanh, nhưng thỉnh thoảng ngừng đón
thêm khách mối dọc đường… thành ra mãi hơn hai tiếng đồng hồ sau, xe mới chạy
ngang ngả ba Vũng Liêm. Con đường về nhà cứ thu ngắn dần trong khi nỗi hồi hộp
trong tôi cứ tăng lên. Giờ này có lẽ vợ tôi đi buôn bán gì đó chưa về, mấy đứa
con chắc gởi nhờ ai đó, không biết hai đứa nhỏ bao lớn, thằng Ti đã hơn bốn
tuổi, còn thằng Ta cũng được chín tháng rồi… bây giờ bỗng có thì giờ nghĩ tới
vợ con, tôi thấy mình càng vô dụng, dù rằng do hoàn cảnh không ai muốn. Tình
trạng của chúng tôi lúc đó khác nào như đám gà trống bị nhốt bội, giao cho gà
mái tự bươi móc kiếm ăn, nuôi con. Vậy đó, người phụ nữ Việt Nam chịu khổ và
phải hy sinh rất lớn. Lịch sử đất nước có bao năm thanh bình? Chinh chiến gần
như chiếm trọn chiều dài lịch sử, không nội chiến thì phải đương đầu với ngoại
xâm, đàn ông phải làm nghĩa vụ với đất nước, dù tự nguyện hay bắt buộc, chính người
phụ nữ Việt Nam đã nuôi dưỡng, xây dựng nền tảng của gia đình, tế bào nhỏ nhất
của xã hội…
Tôi
quay sang kiếm chuyện nói với hai người bạn đồng hành:
- Tôi không về đến bến xe với mấy
ông. Tôi xuống ở ngã ba Cầu Vồng rồi đón xe lôi về nhà qua ngã chợ Cua. Từ bến
xe mà về tới phường Bốn xa quá.
- Ừa, như vậy cũng tiện. Thôi có dịp
mình gặp lại sau.
- Về rồi, mấy ông tính làm gì?
- Biết làm được gì mà tính, tới đâu
hay tới đó.
Phùng
Ba và Trí Đức gốc ở Vĩnh Long, dù gì cũng còn gia đình bên cạnh, nát giậu cũng
còn bờ tre, còn tôi cu ki một thân. Khó nhọc tôi không sợ, nhưng lấy gì để làm
vốn khởi đầu thì tôi hoàn toàn mù mịt. Đã sống qua gần một năm với chế độ mới,
tôi biết là mọi thứ phải bắt đầu lại từ đầu, và tôi biết mình phải bắt đầu từ con
số không – hổng chừng từ con số âm nào đó… Nghĩ mãi vẫn quanh quẩn một chỗ, tôi
mệt mỏi nhắm mắt… Tiếng chú lơ xe làm tôi tỉnh giấc:
- Ngã Tư bà con ơi, ai Ngã Tư không?
Sắp
tới nhà rồi, tôi hồi hộp lạ thường! Tất nhiên là mừng rồi, sắp gặp gia đình rồi
mà sao tim đập loạn xạ, Tôi cố chồm qua nói với lơ xe:
- Chú cho tôi xuống ngã ba Cầu Vồng
nghen.
- Rồi, ngã ba Cầu Vồng, có hành lý
gì không?
- Có một túi trên mui.
Xe
chạy ngang cầu Ông Me, chú lơ la lớn:
- Ngừng ngã ba Cầu Vồng nghen bác
tài.
Xe
chậm dần rồi ngừng lại. Tôi từ giã hai người bạn tù… Từ trên mui xe chú lơ
chuyền gói hành lý cho tôi. Xe lại chuyển bánh. Nói là ngã ba, nhưng thật ra là
ngã tư vì có một con đường đất đỏ nữa, khá rộng và không tráng nhựa, tuy không
có xe lớn qua lại nhưng gắn máy và xe đạp của người dân ở xóm trong đó vẫn dùng
để ra đường lớn. Một nhánh của ngã ba này dẫn về thị xã qua ngã Chợ Cua. Một
chiếc xe lôi chờ khách dưới tàng cây phượng bên đường, chung quanh vắng lặng,
ước chừng cũng hơn ba giờ chiều, thi thoảng vài chiếc xe đạp chạy ngang, không
thư thả cũng không gấp gáp, thời gian như đọng lại, sức sống của xã hội như
chậm lại. Tôi lững thững tiến về chiếc xe lôi… bác tài già ngồi xoay ngang trên
yên xe, khoác trên người chiếc áo kaki lính vàng cũ kỹ, đội chiếc nón nhựa nhái
hình dáng chiếc nón cối, đang cắm cúi đọc tờ Sài Gòn Giải Phóng, gương mặt khắc
khổ, phong trần... Thấy có người đến, ông ngưng đọc báo nhìn lên:
- Cậu ráng đợi thêm chút nữa, có thêm
người, tui chạy liền.
- Dạ, không sao…
Tôi
lên xe, nhìn bâng quơ và đợi. Bây giờ tôi chỉ còn cách nhà gần ba cây số, ở đó
có vợ con tôi. Không biết giờ này mấy mẹ con có ở nhà không hay là Hồng còn
phải chạy hàng, gửi hai đứa nhỏ ở đâu đó. Chỉ chốc lát nữa thôi, tôi đã có thể về
đến nhà… về đến nhà…Tôi có thể ôm thằng Ti, thằng Ta. Tính ra, thằng Ta cũng
được chín tháng rồi. Trong lòng gợn lên niềm vui, trong lòng gợn lên niềm háo
hức, bao lâu rồi tôi không gặp lại vợ con… Dõi mắt theo khắp hướng ngóng tìm
thêm người khách nữa để chiếc xe lôi này có thể mang tôi về nhà. Tôi muốn gợi
chuyện với bác xe lôi mà không biết phải nói gì, lòng tôi nhẹ lâng, tôi chỉ
nghĩ đến giây phút gặp lại vợ con… tôi chỉ nghĩ đến giây phút gặp lại gia đình…
Dường
như cái nôn nóng của tôi hiện ra ngoài, dù tôi cố gắng không để lộ. Bác tài gấp tờ báo, quay lại nhìn thoáng
tôi. Có lẽ bộ dạng tôi nhìn không giống
ai,bác hỏi:
- Cậu mới học tập về hả?
Tôi
“dạ” nhỏ trong miệng, bác tài nói tiếp:
- Thôi để tôi chạy liền.
- Bác cứ đợi thêm một chút
- Không sao đâu!
Nói
xong, bác đạp xe nổ máy, quay lại nói với tôi trong lúc bỏ số:
- Tôi cũng có thằng con đang học cải tạo,
ở đâu tuốt ngoài Trung!
Tôi
chưa kịp nói gì thì chiếc xe đã lóc cóc lắc lư trên con đường nhựa tróc nham
nhở, đầy ổ gà, bụi bậm. Gió lạnh tạt vào mặt…
Chỉ
chừng năm mười phút nữa tôi gặp được vợ con rồi. Xe chạy ngang chợ Cua, giờ này
xế rồi, sạp chợ chỉ còn lác đác, nhưng bến đò Long Mỹ vẫn đông người qua lại…
Xe chạy ngang Văn Thánh, nét hoang tàn vắng lặng phảng phất đâu đó, hai hàng
cây cổ thụ vẫn nghiêm trang dọc hai bên đường dẫn vào miếu vẫn còn đó, mà sao
thấy như tiêu điều hoang phế… Chiếc xe lôi chạy ngang kho xăng… chùa Pháp Hải…
Tôi lắp bắp qua hơi thở gấp gáp:
- Bác cho tôi… cho tôi xuống ở đây
Chiếc
xe chậm dần rồi ngừng lại. Nhà tôi vẫn ở bên kia đường… Tôi bước xuống, lục túi
tìm tiền trả cuốc xe. Bác tài xoay lại, vỗ nhẹ vào tay tôi:
- Thôi, tiền bạc gì, tôi chở không cho cậu
cũng được mà, tôi cũng có thằng con đang học tập cải tạo, thấy cậu tôi nhớ tới
thằng con tôi, không biết chừng nào người ta cho nó về.
Nói
xong, ông hấp tấp cho xe chạy về hướng chợ, bỏ tôi đứng tần ngần bên lề đường
trông theo. Nắng chiều đã nghiêng, đường phố ít người qua lại, chỉ thỉnh thoảng
một chiếc xe lôi vụt qua, làm tung chút bụi đường, gió cuối năm lành lạnh.
Hôm
ấy nhầm ngày Mười Bảy, tháng Một, năm Một Ngàn Chín Trăm Bảy Mươi Bảy.
Tính
từ ngày đi đến ngày về, tôi mất đúng chín tháng mười ngày.